Bài văn phân tích đoạn trích “Hai cây phong” số 2
Ai-Ma -Tốp là một nhà văn nước cộng hòa vùng trung á thuộc Liên Xô trước đây. Ông là một trong những nhà văn tiêu biểu cho thời kì bấy giờ. Ông đã để lại rất nhiều những tác phẩm có giá trị và có tầm ảnh hưởng lớn đối với thời đại. Những tác phẩm của ông được rất nhiều bạn đọc Việt Nam biết đến trong đó phải kể đến tác phẩm “hai cây phong”là một trong những tác phẩm rất xuất sắc của ông. Tác phẩm được trích trong “người thầy đầu tiên”,trong đoạn trích truyện hai cây phong được miêu tả một cách sinh động với ngòi bút đậm chất hội họa.
Trước tiên tác phẩm đặc biệt ở cách kể và ngôi kể trong chuyện nhân vật chúng tôi song song đồng hiện với nhân vật tôi cùng tâm sự chia sẻ những suy nghĩ cảm xúc với người đọc. Do đó ngôn từ hình ảnh chấp chới lúc ẩn lúc hiện lúc thực lúc mơ rất thú vị. Hình ảnh hai cây phong hiện lên những trò chơi ngày bé được hiện lại những suy nghĩ sâu lắng những cảm xúc dạt dào cứ ngân lên theo mỗi câu chữ. Câu chuyện kể về tôi thì lúc ở hiện tại còn lúc chuyện kể với ngôi chúng tôi thì chỉ ở quá khứ. Hai mạch kể ít nhiều phân biệt và trùng vào nhau. Nhân vật xưng tôi đóng vai trò là người kể chuyện được tác giả tạo ra để dẫn dắt câu chuyện. Trong mạch kể chuyện nhân vật xưng tôi tự giới thiệu mình là họa sĩ. Trong mạch kể chuyện nhân vật xưng chúng tôi vẫn là người kể chuyện nhưng lại xưng danh là bọn con trai ngày trước và hồi ấy người kể chuyện cũng là một đứa trẻ trong đó. Căn cứ vào mạch kể chuyện ta thấy ngôi nhân vật xưng tôi quan trọng hơn và được tác giả gửi gắm nhiều những tâm sự hơn.
Hình ảnh so sánh hai cây phong được so sánh với ngọn hải đăng trên núi cho ta thấy được dường như ánh sáng của quê hương và những hồi ức những trải nghiệm trên quê hương đã soi sáng bước chân những đứa trẻ nơi đây để chúng tự tin bước đi trên chính bước chân của chúng đến những miền đất xa lạ và trong số đó chắc hẳn có nhân vật chính của tác giả hay chính là tác giả. Hai cây phong lớn lên như những ngọn đèn hải đăng trên núi từng gây ấn tượng đối với bất kì ai. Với họa sĩ tình yêu quê hương đã chan hòa gắn bó tình thương nhớ hai cây phong đầu làng. Mỗi lần về thăm quê nhà thì họa sĩ đã đưa mắt nhìn hai cây phong quen thuộc và coi đó chính là bổn phận đầu tiên của mình. Nhớ hai cây phong đối với họa sĩ là nỗi nhớ với một nỗi buồn da diết nên càng về tới gần nhà lại càng nhớ. Đứa con ấy thầm tự hỏi lòng mình “ta sắp được thấy chúng chưa,hai cây phong sinh đôi ấy?Mong sao cho nhanh được về tới làng chóng lên tới đồi để được đến với hai cậy phong. Và niềm hạnh phúc biết bao nhiêu đối với đứa con lâu ngày mới được trở về được đứng mãi ở dưới gốc cây để được nghe thấy tiếng lá reo cho đến khi say sưa ngây ngất. Đúng là một mối quan hệ khăng khít của tác giả đối với quê hương đối với tuổi thơ mình. Dường như đó cũng là điều mà tác giả muốn nhắn nhủ đối với tất cả chúng ta hãy nhớ đến quê hương nhớ đến tuổi thơ mình bởi đó chính là nền tảng để tạo nên chúng ta ngày hôm nay.
Hai cây phong mọc trên đồi với dáng vóc khổng lồ với các mắt mấu các cành cao ngất cao đến ngang tầm cánh chim bay với bóng râm mát rượi với dáng vẻ đung đưa như đang chào mới tất cả mọi người đến với nó. Phải chăng chính dáng vẻ chào mời ấy đã khiến cho tác giả có nhiều kỉ niệm đối với nó như thế. Bức tranh thiên nhiên được tác giả ngắm nhìn từ trên cao tạo ra cho người đọc cảm thấy không gian được mở rộng đến muôn vùng xa thẳm thảo nguyên hoang vu và cả dòng sông lấp lánh như đang hiện lên trước mắt người đọc khiến ta như đang hòa chung cùng một cảm xúc đối với tác giả. Bức tranh mà tác giả gợi cho người đọc thật ấn tượng đầy đặc trưng và quyến rũ đã để lại trong lòng người đọc rất nhiều những ấn tượng khó quên.
Hai cây phong đã làm cho người kể chuyện say sưa ngây ngất và khơi nguồn cảm hứng cho người kể chuyện. Hai cây phong gắn với tình yêu quê hương da diết của tác giả khiến cho người đọc cảm thấy thật đáng quý và trân trọng những kỉ niệm tuổi thơ mà đôi lần chúng ta đã vội lãng quên. Tác phẩm gợi cho chúng ta những kỉ niệm ấy và từ khi nào nó bỗng hiện lên một cách vô thức khi ta đọc những kỉ niệm đáng nhớ của nhà văn. Hai cây phong đối với tác giả đó chính là những kỉ niệm vô cùng đẹp đẽ của tuổi học trò ,tuy đã là quá khứ đã xa thật xa nhưng mỗi khi hồi tưởng lại nó dường như tác giả đang cảm nhận nó một chút một chút một và đưa người đọc cùng cảm nhận cùng hồi tưởng lại với nhà thơ. Hai cây phong chính là nhân chứng câu chuyện hết sức sinh động về thầy Đuy –sen và cô bé An-t –nai. Chính thầy đã đem hai cây phong trồng trên đồi với cô bé đó và thầy đã gửi gắm những hi vọng mơ ước cho những đứa trẻ nghèo khổ thất học như An-t-Nai ngày càng được mở mang kiến thức và trở thành những con người có ích. Hình ảnh nhân hóa hai cây phong có tiếng nói riêng và chan chứa những lời nói êm dịu, hai cây phong chính là những con người có tâm hồn với những tâm trạng những cung bậc cảm xúc khác nhau. Hai cây phong được kể và tả bằng chính trí tưởng tượng và những tâm trạng đan xen của người nghệ sĩ.
Tác phẩm đã mang đến cho người đọc thật nhiều tâm trạng và dạt dào cảm xúc về quê hương. Quê hương chính là cái nôi nuôi dưỡng tâm hồn lớn lên và đó còn là nền tảng để con người có thể đứng lên trong bất kì hoàn cảnh nào. Đó chính là cảm xúc lòng biết ơn của người họa sĩ đối với quê hương nơi chôn rau cắt rốn của mình. Tác phẩm như một lời thức tỉnh đối với chúng ta cho chúng ta những cảm nhận thật gần gũi về quê hương.
Bài văn phân tích đoạn trích “Hai cây phong” số 4
Hai cây phong là đoạn trích ở phần đầu truyện Người thầy đầu tiên của nhà văn Ai-ma-tốp. Đoạn trích đã miêu tả vẻ đẹp nên thơ, đầy sức sống của cây phong và tâm trạng bồi hồi, xúc động của nhân vật “tôi” – họa sĩ khi được trở về làng. Hai cây phong là hình tượng trung tâm của bài, qua hình ảnh hai cây phong cho thấy sự gắn bó giữa con người với thiên nhiên, rộng ra là với quê hương, xứ sở. Hai cây phong trong cảm nhận của nhân vật tôi trước hết mang vẻ đẹp thơ mộng và hùng vĩ. Hai cây phong ấy cao lớn giữa ngọn đồi, nhìn chúng như những ngọn hải đăng, định hướng cho mọi người mỗi khi về làng. Nhưng hai cây phong ấy cũng có tiếng nói riêng, tâm hồn riêng, chan chứa những lời ca êm dịu. Tiếng lá reo như tiếng thì thầm khi tha thiết khi nồng nàn có khi lại như tiếng thở dài. Không chỉ vậy hai cây phong còn là nơi hội tụ của lũ trẻ. Dưới gốc cây chúng vui vẻ đùa giỡn, còn trên cao tít cây phong lại mở ra trước mắt chúng một thế giới lung linh huyền ảo như thế giới cổ tích với dải thảo nguyên hoang vu như mất hút trong làn sương mờ đục, những dòng sông lấp lánh tận chân trời như những sợi chỉ bạc mỏng mảnh.
Hai cây phong là một phần quan trọng, không thể thiếu đối với cuộc sống của bất cứ ai nơi đây: “Dù ai đi từ phía nào đến làng Ku-ku-rêu chúng tôi cũng đều trông thấy hai cây phong đó trước tiên” “tôi đều coi bổn phận đầu tiên là từ xa đưa mắt tìm hai cây phong thân thuộc ấy”. Hai cây phong trở thành người bạn tâm giao, tri âm, tri kỉ của họa sĩ: “Rồi sau đó cứ đứng dưới gốc cây để nghe mãi tiếng lá reo cho đến khi say sưa ngây ngất”. Như vậy cây phong là tín hiệu để mỗi đứa con khi về làng định hướng. Qua những lời tâm sự đó ta còn thấy sự gắn nó tha thiết, sâu nặng của tác giả với hai cây phong, với cảnh vật quê hương.
Không chỉ vậy, hai cây phong còn là biểu tượng của lòng biết ơn với người thầy tận tâm Đuy-sen. Kết bài là những băn khoăn của nhân vật “tôi”: “Ai là người đã trồng hai cây phong trên đồi này? Người vô danh ấy đã ước mơ gì, đã nói những gì trước khi vùi hai gốc cây xuống đất, người ấy đã ấp ủ niềm hi vọng gì khi vun xới chúng nơi đây, trên đỉnh đồi cao?”. Những băn khoăn cũng như lời khẳng định về công lao to lớn của thầy Đuy-sen: khi trồng hai cây phong thầy đã gửi gắm bao khát khao, hi vọng những đứa trẻ nghèo khổ sẽ trở thành những người có ích cho xã hội. Thầy Đuy-sen – người thầy đầu tiên đã vun trồng ước mơ, niềm tin cho các thế hệ học trò.
Tác phẩm có sự kết hợp hài hòa giữa miêu tả với tự sự, biểu cảm: hình ảnh hai cây phong được miêu tả gắn với những chi tiết về kỉ niệm tuổi thơ; phong cảnh thiên nhiên được miêu tả bằng ngòi bút đậm chất hội họa nên vừa giàu chất tạo hình lại vừa thấm đẫm cảm xúc chân thành, đằm thắm. Ngôn ngữ kể chuyện đặc sắc, người kể chuyện ở ngôi thứ nhất, khi xưng tôi, khi xưng chúng tôi. Hai mạch kể vừa phân biệt, vừa lồng vào nhau, khiến câu chuyện hấp dẫn, thú vị hơn.
Bằng lời văn thấm đẫm chất trữ tình, miêu tả đậm chất hội họa, tác phẩm đã cho thấy sự gắn bó sâu nặng, tình yêu quê hương tha thiết của nhân vật tôi với quê hương, đặc biệt là với hai cây phong. Đồng thời văn bản còn thể hiện lòng biết ơn với thầy Đuy-sen người đã vun đắp, mơ ước, hi vọng cho trẻ em nơi đây.
Bài văn phân tích đoạn trích “Hai cây phong” số 7
Ai-ma-tốp là nhà văn nước Cộng hòa Cư-rơ-gư-xtan, một nước cộng hoà ờ vùng Trung Á, thuộc Liên Xô trước đây. Chủ đề chính trong các tác phẩm của ông thường là những con người với cuộc sống khắc nghiệt, khó khăn nhưng ẩn chứa trong đó là chất lãng mạn đến từ những tình cảm đáng quý, chân thành như tình bạn, tình thân rồi tình yêu. Các tác phẩm của ông luôn hướng tới lòng nhiệt huyết của thanh niên đặc biệt là các nữ thanh niên, thúc đẩy tinh thần đấu tranh, vượt qua những hy sinh mất mát trong chiến tranh để thoát khỏi sự ràng buộc của những hủ tục lạc hậu áp đặt lên nữ giới và trẻ em. Đoạn trích Hai cây phong được trích trong tác phẩm Người thầy đầu tiên, với ngòi bút sinh động đậm chất hội họa, hai cây phong đã được miêu tả một cách tinh tế và rõ nét, mà qua đó ta thấy hiện lên tình yêu quê hương tha thiết và tình cảm xúc động đặc biệt về một người thầy đã dành cả cuộc đời để ươm mầm ước mơ, hi vọng cho những học trò của mình – thầy Đuy-sen.
Về ngôi kể câu chuyện được kể theo ngôi thứ nhất, tác giả xưng “tôi” trong những cảm nhận chủ quan của mình về hai cây phong, và đây là ngôi kể quan trọng nhất thể hiện được hết những giá trị tư tưởng và biểu cảm của đoạn trích. Đến phần hồi tưởng về ký ức thuở ấu thơ nhiều năm về trước, ngôi kể đó có sự thay đổi từ “tôi” sang “chúng tôi”, như vậy “chúng tôi” ở đây là đại diện cho những đứa trẻ có cùng những kỷ niệm tươi đẹp với hai cây phong, góp phần làm cho đoạn trích thêm phần linh hoạt và sinh động hơn cả. Trước hết nói về vị trí của hai cây phong, hai cây phong ấy nằm ở làng Ku-ku-rêu ven chân núi, trên một cao nguyên rộng, phía dưới chính là thung lũng đất vàng và cánh thảo nguyên Ca-dắc-xtan. Có thể thấy rằng bằng đôi mắt và chất hội họa trong mình tác giả đã đem đến một không gian vô cùng kháng đạt và rộng lớn để làm nền cho hai cây phong xuất hiện và đó cũng là hiện thực bối cảnh của một làng quê nghèo hẻo lánh của vùng Cư-rơ-gư-xtan đầy hoài niệm.
Trong đôi mắt người nghệ sĩ hình tượng hai cây phong trước hết hiện lên với một vẻ khái quát “Phía trên làng tôi, trên ngọn đồi, có hai cây phong lớn”, sau đó tác mới đi vào miêu tả chi tiết hai cây phong bằng hình ảnh so sánh độc đáo “chúng luôn hiện ra trước mắt giống như những ngọn hải đăng trên núi”. Nhân vật chính vẫn luôn trân trọng, nâng niu những ấn tượng thuở thơ ấu, xem hai cây phong như là những thứ thân thuộc nhất. Mà để đến khi đã trưởng thành đã qua phía bên kia dốc cuộc đời, ông vẫn giữ một thói quen nhìn về phía hai cây thông cao lớn như một “bổn phận”. Trong lòng của nhân vật “tôi” có lẽ hai cây phong chẳng đơn thuần là một loài cây mà hơn thế nữa nó đã trở thành một cái gì đó rất gắn bó rất yêu thương, trong mắt tác giả hai cây phong ấy cũng “có tiếng nói riêng và hẳn phải có tâm hồn riêng, chan chứa những lời ca êm dịu”.
Nhân vật chính nói vậy bởi những cảm nhận về sự lay động của hai cây phong trong tiềm thức “dù ngày hay đêm chúng vẫn nghiêng ngả thân cây, lay động lá cành, không ngớt tiếng rì rào theo nhiều cung bậc khác nhau”. Thậm chí trong sự tưởng tượng của nhân vật “tôi” cây phong còn ấp ủ trong mình những cảm xúc, những rung động mãnh liệt như một con người có linh hồn có tình cảm, lúc thì như làn sóng thủy triều vỗ vào bãi cát, lúc lại dịu dàng thiết tha, nồng thắm. Và cũng có những lúc bản thân hai cây phong “im bặt một thoáng, “cất tiếng thở dài một lượt như thương tiếc người nào”, rồi cũng có những khi cây phong phải gánh chịu những biến cố lớn trong cuộc đời, buộc chúng phải mạnh mẽ vượt qua, những “bão giông, xô gãy cành, tỉa trụi lá”, khắc nghiệt đến thế nhưng chúng vẫn “dẻo dai và reo vù vù như một ngọn lửa bốc cháy rừng rực”.
Chính điều ấy đã để lại trong lòng độc giả những ấn tượng sâu sắc về hai cây phong sinh đôi có linh tính, cảm xúc và sức sống bền bỉ dẻo dai là nguồn động lực cho con người vượt qua mọi khó khăn trắc trở. Có thể nói tình cảm của nhân vật chính với hai cây phong thuở ấu thơ đã để lại trong tâm hồn tác giả những dấu ấn sâu đậm khó có thể phai mờ. Đến khi đã trưởng thành, từng nhiều lần đi về chốn quê hương, qua nhiều trải nghiệm, tác giả cũng thấu hiểu “điều bí ẩn” của hai cây phong, nhưng ông vẫn trân trọng và nâng niu những cảm nhận, những giá trị mà ông từng nghĩ về hai cây phong thuở ấu thơ, bởi đó là những hồi ức tốt đẹp nhất mà ông từng có ở vùng quê nghèo khó, “tuổi trẻ của tôi đã ở lại nơi ấy”,…
Sau những cảm nhận cá nhân về hai cây phong, thì nhân vật “tôi” còn có những cảm nhận, ký ức chung với những người bạn thuở thơ ấu, đó là những cuộc vui bất tận, sôi động gắn liền với hình bóng hai cây phong. Những lần lũ trẻ phá tổ chim, reo hò, huýt còi ầm ĩ, thì hai cây phong dường như cũng vui mừng “như muốn chào mời chúng tôi đến với bóng râm mát rượi và tiếng lá xào xạc dịu dàng”. Hai cây thông cũng trở thành pháo đài, căn cứ của lũ trẻ, hay kỳ thú hơn là một vọng gác ngắm cảnh, mà ở đó chúng cảm thấy như có một phép thần thông mở ra một thế giới đẹp đẽ vô ngần trước mắt lũ trẻ có cuộc sống cơ cực, vất vả.
Bởi thế giới ấy chỉ đơn giản là chuồng ngựa của nông trang mà lũ trẻ xem là tòa nhà rộng lớn nhất thế giới, giờ đây khi ở trên hai cây phong cũng chỉ như một căn gác xép bình thường. Điều ấy trở thành bước đệm để mở ra trong lũ trẻ một thế giới mới rộng lớn hơn, bao la hơn vượt ra khỏi ngôi làng bé nhỏ, thảo nguyên rộng lớn, những vùng đất chưa biết tên, con sông chưa từng nghe nói. Từ những băn khoăn những thắc mắc về những thứ lạ lẫm ấy đã mở ra trong tâm hồn lũ trẻ những ước mơ, những khao khát khám phá, khao khát vượt ra khỏi ngôi làng nhỏ bé đến với những vùng đất rộng lớn hơn,… Rồi kết lại chỉ có một điều mà nhân vật chính chưa từng nghĩ đến rằng ai đã trồng hai cây phong này, ai là người đã gián tiếp khơi gợi trong ông niềm hy vọng, ước mơ về một cuộc sống mới tốt đẹp hơn, về khao khát cháy bỏng thay đổi cuộc đời.
Đoạn trích Hai cây phong đã đem đến cho độc giả những cảm xúc đặc biệt về tình cảm gắn bó với quê hương thông qua hình ảnh hai cây phong độc đáo, được miêu tả với bút pháp hội họa đậm chất lãng mạn, hoài niệm. Từ đó mở ra câu chuyện về thầy Đuy-sen và cô bé An-tư-nai, câu chuyện về cuộc đấu tranh không ngừng nghỉ để giành lấy sự công bằng trong cuộc sống, về sự nỗ lực thoát khỏi ràng buộc của những hủ tục lạc hậu đã đã gò ép cuộc đời của người phụ nữ và trẻ em ở miền quê nghèo khó.
Bài văn phân tích đoạn trích “Hai cây phong” số 1
Ai-ma-tốp sinh năm 1928, trong một gia đình viên chức ở nước cộng hoà cư-rư-gư-xtan (hay còn gọi là Kir-ghi-zi) ở vùng Trung Á (thuộc Liên Xô cũ). Năm 1953, Ai-ma-tốp tốt nghiệp Đại học nông nghiệp, trở thành kĩ sư chăn nuôi. Mấy năm sau, ông học sáng tác rồi chuyển sang hoạt động báo chí và viết văn. Tập Núi đồi và thảo nguyên của Ai-ma-tốp đã được trao tặng Giải thưởng Lê-nin, một giải thưởng cao quý của Liên bang Xô viết. Tác phẩm này gồm ba truyện vừa: Người thầy đầu tiên, Cây phong non trùm khăn đỏ, Mắt lạc đà. Ngoài ra, Ai-ma-tốp còn có nhiều tác phẩm nổi tiếng khác như Vĩnh biệt Gun-xa-rư (1966). Con tàu trắng (1970), Một ngày dài hơn thế (1980)… Tên tuổi nhà văn Ai-ma-tốp đã trở nên quen thuộc với bạn đọc trên toàn thế giới. Hai cây phong là đoạn trích từ mấy trang đầu của truyện Người thầy đầu tiên.
Bối cảnh của truyện là làng Ku-ku-rêu ở một vùng núi hẻo lánh, nghèo nàn, lạc hậu vào thời kì đầu thế kỉ hai mươi. Thời đó, tư tưởng phong kiến, gia trưởng còn nặng nề, phụ nữ bị coi thường và trẻ mồ côi bị rẻ rúng. Cô bé An-tư-nai đã mất cả cha lẫn mẹ, phải sống nhờ gia đình chú thím. Cô phải làm việc quần quật suốt ngày và chịu sự giám sát hà khắc của bà thím dâu đáo để, độc ác. Thầy giáo trẻ Đuy-sen được Đoàn thanh niên Cộng sản cử về làng để mở trường xoá mù chữ đã hết lòng giúp đỡ để An-tư-nai được đi học. Bà thím tham tiền ép gả cô bé làm vợ lẽ một gã đàn ông khá giả trong vùng. Một lần nữa, cô bé lại được thầy Đuy-sen giải thoát và gửi lên tỉnh học, rồi tiếp tục học đại học ở Mát-xcơ-va. Sau này, cô trở thành nữ viện sĩ An-tư-nai Xu-lai-ma-nô-va. Cồn thầy Đuy-sen lúc về già làm nghề đưa thư.
Đoạn trích Hai cây phong là bức tranh thiên nhiên tuyệt mĩ và là kí ức sâu sắc của tuổi thơ hiện lên qua dòng hồi tưởng tràn đầy cảm xúc yêu thương. Thông qua việc miêu tả vẻ đẹp của hai cây phong, tác giả ca ngợi quê hương yêu dấu, nơi đã khắc sâu bao kỉ niệm buồn vui và hun đúc trong tâm hồn thơ dại những ước mơ, khát khao cháy bỏng.
Đây là câu chuyện của một người xa quê kể về nơi chôn nhau cắt rốn của mình bằng tình cảm gắn bó tha thiết, thiêng liêng. Mở đầu đoạn văn, tác giả giới thiệu vị trí của làng mình trên thảo nguyên bao la:Làng Ku-ku-rêu chúng tôi nằm ven chân núi, trên một cao nguyên rộng có những khe nước ào ào từ nhiều ngách đá đổ xuống. Phía dưới làng tôi là thung lũng Đất vàng, là cánh thảo nguyên Ca-dắc-xtan mênh mông nằm giữa các nhánh của rặng núi Đen và con đường sắt làm thành một dải thẫm màu băng qua đồng bằng chạy tít đến tận chân trời phía Tây.
Khung cảnh trữ tình này vừa là phông nền làm nổi bật hình ảnh hai cây phong, vừa là nguồn cảm hứng bất tận của tác giả: Phía trên làng tôi, giữa một ngọn đồi, có hai cây phong lớn. Tôi biết chúng từ thuở bắt đầu biết mình. Dù ai đi từ phía nào đến làng Ku-ku-rêu chúng tôi cũng đều trông thấy hai cây phong đó trước tiên, chúng luôn hiện ra trước mắt hệt như những ngọn hải đăng đặt trên núi… Cứ mỗi lần về quê, khi xuống xe lửa đi qua thảo nguyên về làng, tôi đều coi bổn phận đầu tiên là từ xa đưa mắt tìm hai cây phong thân thuộc ấy. Tâm trạng này của tác giả giống như tâm trạng của người đi xa, nóng lòng muốn gặp lại người thân sau bao ngày cách biệt. Dẫu chưa nhìn thấy cây nhưng hình ảnh thân thuộc của chúng đã hiện rõ trong tâm tưởng: Dù chúng có cao đến đâu chăng nữa, đứng xa thế cũng khó lòng trông thấy ngay được, nhưng tôi thì bao giờ cũng cảm biết được chúng, lức nào cũng nhìn rõ.
Hình ảnh của hai cây phong được coi là dấu ấn của làng đã in sâu trong trái tim, khối óc và trở thành một phần máu thịt của người đi xa: Đã bao lần tôi từ những chốn xa xôi trở về Ku-ku-rêu, và lần nào tôi cũng nghĩ thầm với một nỗi buồn da diết: “Ta sắp được thấy chúng chưa, hai cây phong sinh đôi ấy? Mong sao chóng về tới làng, chóng lên đồi mà đến với hai cây phong! Rồi sau đó cứ đứng dưới gốc cây để nghe mãi tiếng lá reo cho đến khi say sưa ngây ngất”. Tình yêu tha thiết dành cho hai cây phong tuôn chảy không ngừng dưới ngòi bút tinh tế của nhà văn đã mang lại cho hai cây phong đời sống tâm hồn phong phú như con người. Đây là bức tranh được vẽ bằng thứ ngôn ngữ đầy tính tạo hình của hội họa và tính trữ tình của thơ, của nhạc: Trong làng tôi không thiếu gì các loại cây, nhưng hai cây phong này khác hẳn – chúng có tiếng nói riêng và hẳn phải có một tâm hồn riêng, chan chứa những lời ca êm dịu. Dù ta tới đây vào lúc nào, ban ngày hay ban đêm, chúng cũng vẫn nghiêng ngả thân cây, lay động lá cành, không ngớt tiếng rì rào theo nhiều cung bậc khác nhau. Có khi tưởng chừng như một làn sóng thủy triều dâng lên vỗ vào bãi cát, có khi lại nghe như một tiếng thì thầm thiết tha nồng thắm truyền qua lá cành như một đốm lửa vô hình, có khi hai cây phong bỗng im bặt một thoảng, rồi khắp lá cành lại cất tiếng thở dài một lượt như thương tiếc người nào. Và khi mây đen kéo đến cùng với bão giông, xô gãy cành, tia trụi lá, hai cây phong nghiêng ngả tấm thân dẻo dai và reo vù vù như một ngọn lửa bốc cháy rừng rực.
Hai cây phong được quan sát, miêu tả tỉ mỉ, sinh động bằng đôi mắt họa sĩ, đôi tai nhạc sĩ và trái tim của nhà thơ. Bên cạnh bức tranh bằng ngôn từ là một bản giao hưởng của âm thanh với đủ cung bậc buồn vui. Người viết đã phát huy cao độ trí tưởng tượng bay bổng và cảm xúc say mê, nồng nhiệt của mình vào việc thể hiện vẻ đẹp lạ thường của hai cây phong. Có khi chúng thì thầm thiết tha nồng nàn, có khi chúng bỗng im bặt một thoáng, rồi khấp lá cành lại cất tiếng thở dài một lượt như thương tiếc người nào. Được nhân cách hóa cao độ nên hai cây phong có tiếng nói và tâm hồn đa dạng, phong phú, cuốn hút lòng người.
Âm thanh huyền ảo phát ra từ hai cây phong làm say đắm tuổi thơ sau này đã được nhà văn khám phá ra nhờ những hiểu biết khoa học: Về sau, khi nhiều năm đã trôi qua, tôi mới hiểu được điều bí ẩn của hai cây phong. Chẳng qua chúng đứng trên đồi cao lộng gió nên đáp tại bất kì chuyển động khe khẽ nào của không khí mỗi chiếc lá nhỏ đều nhạy bén đón lấy mọi làn gió nhẹ thoảng qua. Dấu ấn và kỉ niệm về hai cây phong vẫn còn nguyên vẹn sau ngần ấy thời gian bởi vì hai cây phong gắn bó thân thiết với tuổi học trò. Tác giả kể rằng : Việc khám phá ra chân lí giản đơn ấy vẫn không làm tồi vỡ mộng xưa, không làm tôi bỏ mất cách cảm thụ của tuổi thơ mà tôi còn giữ đến tận ngày nay. Và cho đến tận ngày nay tôi vẫn thấy hai cây phong trên đồi có một vẻ sinh động khác thường. Tuổi trẻ của tôi đã để lại nơi ấy, bên cạnh chúng như một mảnh vỡ của chiếc gương thân xanh…
Hai cây phong đẹp như những cây thần trong cổ tích, vẻ đẹp kì diệu của chúng sẽ mãi mãi in sâu trong tâm khảm nhà văn, bất chấp quy luật thay đổi của thiên nhiên, của lòng người bởi vì nó được nhìn qua đôi mắt trẻ thơ chan chứa tình yêu nồng nàn, sâu đậm đối với những gì thân thuộc nhất của quê hương. Theo dòng hồi tưởng miên man, kỉ niệm gắn liền với hai cây phong dần dần hiện lên rõ ràng, tươi mới như vừa xảy ra hôm qua. Những lúc được vui chơi cùng cây là những khoảnh khắc vui sướng, hạnh phúc của tuổi thơ: Vào năm học cuối cùng, trước khi bắt đầu nghỉ hè, bọn con trai chúng tôi chạy ào lên đấy phá tổ chim. Cứ mỗi lần chúng tôi reo hò, huýt còi ầm ĩ chạy lên đồi là hai cây phong khổng lồ lại nghiêng ngả đung đưa như muốn chào mời chúng tôi đến với bóng râm mát rượi và tiếng lá xào xạc dịu hiền. Và chúng tôi, lũ nhóc con đi chân đất, cõng kênh nhau bám vào các mắt mấu và cành cây trèo lên cao làm chấn động cả vương quốc loài chim. Hàng đàn chim hoảng hốt kêu lên, chao đi chao lại trên đầu. Nhưng chúng tôi vẫn chưa coi vào đâu, đến đây đã thấm gì! Chúng tôi cứ leo lên cao nữa, cao nữa – nào xem ai can đảm và khéo léo hơn ai! Và từ trên những cành cao ngất, cao đến ngang tầm cánh chim bay, bỗng như có một phép thần thông nào vụt mở ra trước mắt chúng tôi cả một thế giới đẹp đẽ vô ngần của không gian bao la và ánh sáng.
Tưởng chừng như cảm giác háo hức, hiếu kì của cậu bé mười mấy tuổi năm nào khi trèo lên ngọn cây, phóng tầm mắt về phía chân trời và lắng tai nghe tiếng gió ảo huyền thì thầm trò chuyện với lá phong giờ đây vẫn còn nóng hổi trong tâm hồn người họa sĩ: Đất rộng bao la làm chúng tôi sửng sốt. Mỗi đứa chúng tôi đều nín thở ngồi lặng đi trên một cành cây và quên mất cả chim lẫn tổ chim. Chuồng ngựa của nông trang mà chúng tôi vẫn coi là tòa nhà rộng lớn nhất trên thế gian, ngồi đây chúng tôi thấy chỉ như một căn nhà xép bình thường. Phía sau làng là dải thảo nguyên hoang vu mất hút trong làn sương mờ đục. Chúng tôi cố giương hết tầm mắt nhìn vào nơi xa thẳm biêng biếc của thảo nguyên và nhìn thấy không biết bao nhiêu, bao nhiêu là vùng đất mà trước đây chúng tôi chưa từng biết đến, thấy những con sông mà trước đây chúng tôi chưa từng nghe nói.
Những dòng sông lấp lánh tận chân trời như những sợi chỉ bạc mỏng manh. Chúng tôi nép mình ngồi trên các cành cây suy nghĩ: đã phải đấy là nơi tận cùng thế giới chưa, hay phía sau vẫn còn có bầu trời như thế này, những đám mây, những đồng cỏ và sông ngòi như thế này? Hình ảnh hai cây phong gợi lại những ki niệm khó quên về thời niên thiếu tinh nghịch, hồn nhiên, trong sáng. Nó nâng cao và mở rộng tầm mắt, đồng thời thổi bùng lên ngọn lửa khát khao hiểu biết trong lòng nhà văn về những miền đất bí ẩn đầy sức quyến rũ lẩn sau chân trời xa thẳm biêng biếc kia…Kết thúc đoạn văn, tác giả đặt ra câu hỏi ai đã trồng hai cây phong và đặt tên cho quả đồi: Thuở ấy, chỉ có một điều tồi chưa hề nghĩ đến ai là người đã trồng hai cây phong trên đồi này ? Người vô danh ấy đã ước mơ gì, đã nói, những gì khi vùi hai gốc cây xuống đất, người ấy đã ấp ủ những niềm hi vọng gì khi vun xới chúng nơi đây, trên đỉnh đồi cao này? Quả đồi có hai cây phong ấy, không biết vì sao ở làng tôi họ gọi là “Trường Đuy-sen”.
Cuối tác phẩm, tác giả đã giải thích nguồn gốc của hai cây phong bằng một câu chuyện cảm động gắn liền với tình thầy trò thắm thiết. Cách đây bốn mươi năm, chính thầy Đuy-sen đã đem hai cây phong về trồng trên đồi này và thầy đã gửi gắm ở hai cây phong non hi vọng của mình vào những đứa trẻ nghèo khổ, thất học như An-tư-nai sau này sẽ trở thành những người hữu ích. Thầy Đuy-sen đã gieo những hạt giống ước mơ vào tâm hồn non trẻ. Hai cây phong đầu làng qua bao năm tháng đã thầm lặng góp phần cùng người thầy đầu tiên biến ước mơ thành hiện thực.
Chuyện về hai cây phong giống như lời tâm sự tự nhiên và chân thành. Tác giả đã truyền tình yêu tha thiết từ trái tim mình sang trái tim bạn đọc, dẫn dắt bạn đọc đến với nhân vật Đuy-sen – người thầy đầu tiên của ngôi làng Ku-ku-rêu nghèo nàn, nhỏ bé bằng đoạn văn miêu tả vẻ đẹp khó quên của hai cây phong nhân chứng của câu chuyện hết sức xúc động về tình thầy trò, về lương tâm và trách nhiệm cao cả của thầy giáo Đuy-sen.
Bài văn phân tích đoạn trích “Hai cây phong” số 8
Trong số các nhà văn của đất nước Liên Xô cũ, có lẽ Tsin-ghi-dơ Ai-má-tốp là người gần gũi với người đọc Việt Nam nhất. Truyện của ông, từ Ja-mi-li-a,…, Vĩnh biệt Gưn-xa-rư, đến Ngày dài hơn thế kỷ đều có bóng dáng của quê hương Cư-rơ-gư-xtan, đều phản ánh phong tục tập quán, đấu tranh cho cuộc sống tiến bộ, đạo đức và tình cảm tốt đẹp của con người… Một trong những tình cảm khiến truyện của Ai-ma-tốp gần gũi với người đọc Việt Nam có lẽ là tình cảm thầy trò mà truyện ngắn Người thầy đầu tiên là truyện tiêu biểu.
Truyện ghi lại hoạt động của một đoàn viên thanh niên chấp hành sự điều động của tổ chức, dù học lực chưa được là bao, về xây dựng một ngôi trường ở nơi người dân chưa hề biết đến con chữ. Cô bé An-tư-nai mồ côi sống trong gia đình chú thím ở làng Ku-ku-rêu, chẳng được học hành, và phải chịu sự giám sát, sai khiến hà khắc của bà thím. Đuy-sen được Đoàn Thanh niên Cộng sản cử về làng để mở trường, đã kịp thời cứu giúp, cho em đến trường học. Một hôm, Đuy-sen mang về trường hai cây phong non và bảo em: “Hai cây phong này thầy mang về cho em đây. Chúng ta sẽ cùng trồng. Và trong khi chúng lớn lên, ngày một thêm sức sống, em sẽ trưởng thành, em sẽ là một người tốt… Em bây giờ trẻ măng như một thân cây non, như đôi cây phong nhỏ này…”.
Bà thím ác nghiệt ép gả bán An-tư-nai làm vợ lẽ cho người ta. Một lần nữa, An-tư-nai được thầy Đuy-sen giải thoát, được lên tỉnh học, rồi đến học tiếp ở Mát-xcơ-va, sau trở thành nữ viện sĩ An-tư-nai Xu-lai-ma-nô-va. Còn thầy Đuy-sen, bấy giờ đã già, làm nghề đưa thư…
Đoạn văn mà chúng ta phân tích nằm ở phần đầu của truyện ngắn. Phần truyện này được viết bằng hai mạch văn lồng ghép vào nhau. Một mạch văn mà nhân vật kể là “tôi” – nhân danh bản thân của mình giới thiệu ngôi làng, vị trí của hai cây phong và nêu cảm hiểu của mình về chúng. Mạch văn khác nhân danh “chúng tôi” – do nhân vật “tôi” nhớ và kể lại như là hồi ức về một quãng đời đã từng sống cùng hai cây phong ở trong làng.
Sau khi giới thiệu vị trí và đặc tính về địa lý của ngôi làng Ku-ku-rêu, nhân vật “tôi”, giờ đã là họa sĩ, giới thiệu hai cây phong: “Phía trên làng tôi, giữa một ngọn đồi, có hai cây phong lân. Tôi biết chúng từ thuở bắt đầu biết mình”. Ấy là giới thiệu vị trí của hai cây phong, và mốc thời gian mà nhân vật “tôi” nhận biết được hai cây phong ấy. Thật thú vị khi đọc câu văn “Tôi biết chúng từ thuở bắt đầu biết mình”. Thú vị là ở chỗ nó vừa chính xác vừa mơ hồ, đồng thời cũng là thông báo cho người đọc biết hai cây thông ấy xuất hiện ở làng trước khi nhân vật “tôi” nhận biết được sự có mặt của mình. Và nhân vật “tôi” nêu cảm nhận về vị ưí của hai cây phong lớn ấy. Đấy là một vị trí mà bất cứ ai đi từ hướng nào “cũng đều trông thấy hai cây phong đó trước tiên”, rồi so sánh chúng “nhưnhững ngọn hải đăng đặt trên núi”. Nếu biết “hải đăng” là ngọn đèn biển, thường dựng ở một mũi đất hoặc một hòn đảo để hướng dẫn tàu thuyền đi lại ngoài khơi hoặc ra vào bến cảng thì sẽ nhận ra ý nghĩa trân trọng hai cây phong của nhân vật “tôi” qua sự so sánh ấy. Nó như cây đa đầu làng đối với người Việt Nam khi sống ở nơi xa có dịp trô về làng cũ.
Cảm nhận về hai cây phong càng lúc càng sâu sắc hơn là ở lời tâm sự “cứ mỗi lần về quê, khi xuống xe lửa đi qua thảo nguyên về làng, tôi đều có bổn phận đầu tiên là từ xa đưa mắt tìm hai cây phong thân thuộc ấy”. Tại sao việc đưa mắt tìm hai cây phong được nhân vật “tôi” coi là “bổn phận đầu tiên” mà không là một việc khác? Có phải là vì chúng giữ vị trí dẫn đường, vì những ấn tượng thời thơ ấu, hay vì chúng đẹp qua cái nhìn của nhân vật “tôi” nay đã là họa sĩ? Hình như ngoài những điều ấy, hai cây phong còn ẩn chứa điều bí ẩn nào đó cuốn hút tâm hồn nhân vật “tôi”, khiến nhân vật “tôi” cảm nhận hai cây phong sinh đôi ấy khác hẳn với các loại cây khác, “chứng có tiếng nói riêng và hẳn phải có một tâm hồn riêng, chan chứa những lời ca êm dịu”.
Từ cảm nhận ấy, nhân vật tôi tập trung miêu tả tiếng lá reo của hai cây phong như hơi thỏ, tiếng nói cười của hai con người. Ai-ma-tốp không chỉ vận dụng thi giác để thấy cây nghiêng ngả, “lay động lá cành vận dụng thính xác để nghe được “tiếng rì rào theo nhiều cung bậc khác nhau” mà còn vận dụng cả trí tưỏng tượng phong phú của người họa sĩ khi miêu tả hai cây phong sinh đôi giữa đồi cao lộng gió. Nhà văn đã sử dụng tối đa nghệ thuật so sánh để mô tả tiếng phong reo theo tâm trí tưởng tượng của nhân vật, lúc thì “tưởng chừng như một làn sóng thảy triều ”, lúc thì “lại cất tiếng thở dài một lượt như thương tiếc người nào ”, lúc thì “reo vù vù như một ngọn lửa bốc cháy rừng rực”. Rõ ràng với lối miêu tả hình ảnh thực xen lẫn với tâm trí tưồng tượng ây, nhà văn đã mang đến cho người đọc hai cây phong mang tâm hồn bí ẩn. Với nhân vật “tôi”, dù hiểu được điều bí ẩn của hai cây phong, nhưng đó chỉ là hiện tượng vật lý. Còn về tình cảm thì “Tuổi trẻ của tồi đã để lại nơi ấy, bên cạnh chứng như một mảnh võ cửa chiếc gương thần xanh..”. Nó đã là điều thuộc về tâm linh, sự gắn bố tự nhiên với hai cây phong từ thuở còn thơ đại mà đến tận ngày nay nhân vật “tôi” vẫn “Mong sao chóng về với làng, chóng lên đồi mà đến với hai cây phong”.
Một mạch văn xuyên suốt, nhân vật “tôi” đã nhân danh mình để nói lên tình cảm gắn bó với ngôi làng Ku-ku-rêu, nhất là với hai cây phong sinh đôi. Ấy là mạch văn miêu tả những gì thuộc về cá nhân. Nhưng khi nhắc đến “tuổi trẻ cửa tôi đã để lại nơi ấy” thì danh xưng và mạch văn thay đổi bằng lối văn hồi ức, miêu tả lại hoạt động của “bọn con trai chúng tôi trong đó có nhân vật “tôi”. Hình ảnh quá khứ, nhất là lần cùng với bạn chạy ào lên chỗ hai cây phong để phá tổ chim hiện về như cảnh phim quay chậm. Những đoạn văn hồi ức đã làm sống lại thời tuổi thơ trong sáng của nhân vật tôi cùng bạn bè với hai cây phong. Người và cây thật gần gũi, thật gắn bó trong những câu văn của Ai-ma-tốp. Người thì “reo hò, huýt còi ầm ĩ chạy lên đồi còn cây thì “nghiêng ngả đung đưa như muốn chào mời chúng tôi đến với bóng râm mát rượi và tiếng lá xào xạc dịu hiền ”.
Hai cây phong như hai con người có tâm hồn hòa nhịp với tâm hồn tuổi trẻ. Và còn hơn thế là chắp cánh cho tuổi trẻ, khi ở trên những cành cao nhất “bỗng như có một phép thần thông nào vụt mở ra trước mắt chúng tôi cả một thế gỉớỉ đẹp đẽ vô ngần của không gian bao la và ánh sáng“. Nhờ hai cây phong mà bọn trẻ “chúng tôi” mở rộng tầm nhìn. Từ khoảng hẹp quanh đồi, quanh làng, nay ở trên cành cao nhìn quanh thấy trời đất rộng bao la mà kể từ lúc sinh ra cho đến giây phút trước khi trèo lên cành cây phong cao ngất “chứng tôi“ chưa hề thấy. “Chúng tôi cố giương hết tầm mắt nhìn vào nơi xa thẳm biêng biếc của thảo nguyên và nhìn thấy khổng biết bao nhiêu, bao nhiêu là vùng đất mà trước đây chúng tôi chưa từng biết đến, thấy những con sông mà trước đây chúng tôi chưa từng nghe nói”. Và điều quan trọng khác là những gì được nhìn thây ở chung quanh ấy đã gợi cho “chúng tôi” suy nghĩ về giới hạn của núi sông, cây cỏ, bầu trời và những đám mây…; lắng nghe tiếng gió ảo huyền và tiếng lá cây đáp lại lời gió. Mạch văn ghi lại hồi ức chấm dứt.
Truyện trở lại với mạch kể của nhân vật “tôi” nhân danh bản thân miêu tả hai cây phong và nêu cảm xúc, suy nghĩ một cách gần gũi, sâu xa về chung, kể cả điều mà giờ đây “tôi” mới nêu ra: “Ai là người đã trồng hai cây phong trên đồi này? Người vô danh ấy đã ước mơ gì, […] đã ấp ủ những niềm hi vọng gì khi vun xới chúng nơi đây, trên đỉnh đồi cao này?”. Và một câu hỏi khác: “Quả đồi có hai cây phong ấy, không biết vì sao ở làng tôi họ gọi là “Trường Đuy-sen”.” Câu hỏi này đã hàm chứa câu trả lời kín đáo cho câu hỏi trên.
Đoạn truyện là lời kể và hồi ức về một quãng đời của nhân vật “tôi”. Qua ngòi bút của T.Ai-ma-tôp, hình ảnh người thầy đầu tiên không tách rời khỏi bao thế hệ học trò mà hai cây phong là biểu tượng của sự gần gũi ấy. Với bút pháp tượng trưng, lời văn trữ tình giàu chất thơ, hai cây phong được diễn tả như hai con người ẩn chứa cái đẹp, cái thiện, hy sinh luôn luôn bị thử thách, và cuối cùng đã chiến thắng, mà cụ thể là nhân vật “tôi”, một học trò cũ đã thành danh dù đang ở nơi xa nhưng luôn tìm dịp quay về làng cũ để đến với hai cây phong “nghe mãi tiếng lá reo cho đến khỉ say sưa ngây ngất”. Ai-ma-tốp được mọi người biết đến là nhờ cách viết khéo léo lấy.
Bài văn phân tích đoạn trích “Hai cây phong” số 6
Hai cây phong là phần đầu của truyện tả cảnh sắc làng Kur-ku-rêu, hồi tưởng lại kỉ niệm êm đềm về hai cây phong của chốn quê dào dạt tâm hồn đứa con đi xa về thăm nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Trích đoạn này đã thể hiện một cách đằm thắm, thiết tha tình yêu cố hương, biểu lộ lòng biết ơn người thầy đầu tiên đã trồng cây và trồng nơi thảo nguyên hoang vu mênh mông.
Cảnh sắc làng Kur-ku-rêu, chốn quê thân yêu của nhân vật “tôi” – họa sĩ, sau những năm tháng đi xa trở về thăm làng. Phần đầu trích đoạn nói về cảnh sắc làng Kur-ku-rêu, chốn quê thân yêu của nhân vật “tôi” – họa sĩ, sau những năm tháng đi xa trở về thăm làng. Những tiếng: “Lùng Kur-ku-rêu chúng tôi”… “phía dưới làng tôi…”, “phía trên làng tôi” cất lên thật gợi cảm, đầm ấm và mến thương biết bao! Làng ở “ven chân núi” trên một cao nguyên.
Cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ, bao la. Có “thung lũng đất vàng”, có cánh thảo nguyên Ca-dắc-xtan “mênh mông”. Có khe nước “ào ào từ miền ngách đả đổ xuống”, có rặng núi Đen và con đường sắt “băng qua dồng hằng chạy tít đến tận chân trời phía tây”. Cảnh sắc quê hương được cảm nhận bằng nhừng hình ảnh đường nét đậm nhạt, cao thấp, gần xa làm hiện lên một không gian nghệ thuật rất đẹp với bao yêu mến tự hào của một đứa con đối với cố hương, của một họa sĩ tài hoa trước thiên nhiên kì thú. Sau câu chữ và cảm xúc dâng trào với bao bồi hồi thương nhớ.
Nhớ làng Kur-ku-rêu đối với đứa con xa quê trở về là nhớ hai cây phong trên đồi cao ở đầu làng. Họa sĩ biết hai cây phong “từ thuở bắt đầu biết mình”, một sự gắn bó thiết tha với cả một đời người. Hai cây phong lớn “như những ngọn hải đãng đạt trên núi ” từng gây ân tượng đối với bất cứ ai, dù “đi từ phía nào ” đến thăm làng Kur-ku-rêu. Riêng đối với họa sĩ, mồi lần về thăm quê nhà đã “từ xa đưa mắt tìm hai cây phong thân thuộc ấy ” và tự coi đó là “bổn phận đầu tiên ” của mình. Với họa sĩ, tình yêu quê hương đã chan hòa, đã gắn bó với tình thương nhớ hai cây phong lớn đầu làng.
Nhớ hai cây phong đối với họa sĩ là nhớ “với một nỗi buồn da diết”; nên càng về gần tới làng lại càng nhớ. Đứa con li hương tự hỏi thầm lòng mình: “Ta sắp dược thấy chúng chưa, hai cây phong sinh dôi ấy? Mong sao chóng về tại làng, chóng lên đồi mà đến vsi hai cây phong!” và hạnh phúc biết bao đối với đứa con xa quê lâu ngày mơi trở về, được “đứng dưới gốc để nghe mãi tiếng lá reo cho đến khi say sưa ngây ngất ”.
Nhớ cây phong đối với khách tha hương là nhớ “tiếng nói riêng”, “tâm hồn riêng, chan chứa những lời ca êm dịu” của nó. Nhớ cây phong là nhớ dáng hình của nó, nhớ thân cây “nghiêng ngả” nhớ âm thanh “rì rào” của lá cành “lay động” cả ban ngày hay ban đêm. Ai-ma-tốp đã sáng tạo nên hàng loại ẩn dụ, so sáng và nhân hóa để gợi tả và biểu cảm về “tiếng nói riêng” “tâm hồn riêng” của hai cây phong quê nhà “như một làn sóng thủy triều dâng lên, vồ vào bãi cát”, “như một tiếng thì thầm thiết tha nồng thắm chuyền qua lá cành , như một đốm lửa vô hình”.,.
Có lúc hai cây phong tưởng như đang trầm tư “bỗng im bặt một thoáng” rồi “lại cất tiếng thở dài một lượt như thương tiếc người nào”….Nếu cây tre, lũy tre làng ta, trong “Bão bùng thân bọc lấy thân – Tay ôm tay níu tre gần nhau thêm” (Nguyễn Duy), thì cây phong làng Kur-ku-rêu, cây phong thảo nguyên trong mây đen và bão dông bị “xô gãy cành, tỉa trụi lá” , nó vẫn “dẻo dai và reo vù vù như một ngọn lửa bốc cháv rừng rực”. Hai cây phong có một sức sống vô cùng mãnh liệt, biểu tượng cho bao phẩm chất tốt đẹp của con người quê hương, con người thảo nguyên.
Đây là đoạn văn hay nhất, giàu hình tượng và biểu cảm nhất nói về hay cây phong, thể hiện một sự tin tưởng kì diệu, phong phú với tất cả tình yêu nồng hậu đối với hoa cỏ, cây lá: một đoạn văn đáng học thuộc, đáng nhớ: … “Trong làng tôi không thiếu gì các loại cây, nhưng hai cây phong này khác hẳn…và reo vù vù như một ngọn lửa bốc cháy rừng rực”. Họa sĩ yêu hai cây phong quê nhà với tất cả tấm lòng và tình nghĩa thủy chung, như ông đã lâm sự: “Tuổi trẻ của tôi đã dể lại mùa ấy, bên cạnh chúng như một mảnh vỡ của chiếc gương thần xanh ”. “Mảnh vỡ của chiếc gương thần xanh ” ấy là tâm hồn tuổi thơ vô cùng trong sáng.
Phần hai trích đoạn “Hai cây phong”, tác giả kết hợp-tự sự với miêu tả, nhắc lại kỉ niệm tuổi thơ êm đềm. Hoài niệm tuổi thơ về quê hương bao giờ cũng đằm thắm, thiết tha. Với con người Việt Nam chúng la, mỗi lần đi xa nhớ quê là nhớ hương vị đậm đà “nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương”, là nhớ con đò, cánh diều biếc, nhớ cây đa, giếng nước, sân đình, là nhớ dòng sông quê mẹ với bao kỉ niệm một thời thơ bé: “Bạn hè tôi tụm núm tụm bảyBầy chim non bơi Ịội trên sôngTôi đưa tay ôm nước vào lòngSông mở nước ôm tói vào dạ.. ”(“Nhớ con sông quê hương ” – Tế Hanh)
Nhân vật họa sĩ nhớ quê hương, nhớ làng Kur-ku-rêu là nhớ kỉ niệm tuổi thơ với cây phong thân thương. Không bao giờ có thể quyê được “buổi học cuối cùng” năm ấy, trước khi bắt đầu nghỉ hè. Bọn con trai nghịch ngợm và hồn nhiên “reo hò, huýt còi ầm ĩ” chạy lên đồi…. Hai cây phong như những người bạn thân tình mở lòng đón tiếp: “chúng nghiêng ngã đung đưa như muốn chào mời… đến với bóng râm mát rượi và tiếng lá xào xạc dịu hiền”. “Lũ nhóc con đi chân đất” trèo lên hai cây phong “làm chấn động cả vương quốc loài chim”. Trên ngọn cây phong, “những cành cao ngất” bọn trẻ nhỏ làng Kur-ku-rcu vô cùng sung sướng ngắm nhìn cảnh vật gần xa. Chúng tưởng như “có một phép thần thông nào vụt mở ra trước mắt… Cả một thế giới đẹp đẽ vô ngần của không gian bao la và ánh sáng”.
Cây phong đã mơ rộng tầm mắt, làm sáng lên tâm hồn tuổi thơ, làm cho lũ trẻ “sửng sốt”. Tất cả đều “nín thở ngồi im lặng”… phóng tầm mắt về bốn phía chân trời. Bức tranh quê hương hiển hiện, như mở rộng, như vẫy gọi. Chuồng ngựa của nông trang, dải thảo nguyên hoang vu, “xa thẳm biên biếc”. Những dòng sông xa lạ “lấp lánh tận chân trời như những sợi chí hạc mỏng manh”. Lũ trẻ “lắng nghe tiếng gió ào huyền ”, tiếng “thì thầm to nhỏ” của “lá cây đáp lại lời gió”, rồi chúng nghĩ về những miền đất lạ nơi chân trời xa xôi, về bầu trời, những đám mây, những đồng cỏ, sông ngòi, “những miền đất bí ẩn đầy sức quyến rũ lẩn sau chân trời xa thắm biên biếc kia”.
Cậu bé – họa sĩ tương lai vô cùng xúc động “lắng nghe tiếng hai cây phong rì rào, tim đập rộn ràng vì thảng thốt và vui sướg:… ; lòng mơ tương và “cố hình dung ra những miền xa lạ kia”. Hai cây phong trên đồi quê không chỉ mở rộng tầm mắt mà còn nâng cánh ước mơ cho những em bé làng Kur-ku-rêu bay tới những chân trời xa xôi tươi sáng… Sau này, khi đã trưởng thành, nhân vật họa sĩ mới tự hỏi lòng mình: điều mà thuở ấu thơ chưa hề nghĩ đến “Ai là ngựời đã trồng hai cây phong trên đồi này? Người vô danh ấy đã ước mơ gì, đã nói những gì khi vùi hai gốc cây xuống đất, người ấy đã ấp ủ những niềm hy vọng gì khi vun xới chúng mù đây, trên đỉnh đồi cao này?”
Tuổi thơ non nớt cũng không hiểu vì sao quả đồi có hai cây phong ấy, bà con làng mình gọi là “Trường Đuy-sen “. Tình cảm “ăn quả nhớ kẽ trồng cây”, “uống nước nhớ nguồn” đã được Ai-ma-tốp diễn tả một cách tinh tế, sâu lắng, đầy chất thơ. Phần sau truyện “Người thầy đầu tiên” đã nói rõ tình cảm, tư tưởng tốt đẹp đó. Trích đoạn Hai cây phong là trang văn chứa chan thi vị, đã thể hiện một cách sâu sắc tình yêu quê hương, tình yêu cây cỏ, cảnh sắc thiên nhiên quê nhà. Những kỉ niệm đẹp của tuổi thơ và lòng biết ơn người thầy đầu tiên của đời mình, của quê hương mình đã làm nên chất thơ của truyện.
Đoạn văn tả tiếng nói riêng, tâm hồn riêng của cây phong là hay nhất. Đoạn văn kể lại kỉ niệm tuổi thơ treo lên hai cây phong nhìn về bốn phía chân trời là cảm động nhất. Dòng hồi tưởng, nỗi nhớ hai cây phong của nhân vật họa sĩ như được chắt lọc từ nơi sâu thẳm tâm hồn, rất chân thực, hồn nhiên và trong sáng, vẻ đẹp cây phong là vẻ đẹp thảo nguyên phương Bắc. Hai cây phong là bài ca nghĩa tình về quê hương, về người thầy vĩ đại đã “trồng cây và trồng người”…
Bài văn phân tích đoạn trích “Hai cây phong” số 10
Chúng ta được biết truyện vừa Nỵười thầy đầu tiên là một trong những tác phẩm nổi tiếng của nhà vãn nước Cộng hoà Cư-rơ-gư-xtan Ai-ma-tốp. Tác phẩm viết về tình thầy trò cao đẹp, từ đó ca ngợi sức sống dẻo dai, sự vươn lên mạnh mẽ của một lớp người tuổi trẻ trên đất nước Cư-rơ-gư-xtan những năm hai mươi của thế kỉ trước. Tiêu biểu cho lớp người ấy là thầy giáo Đuy-sen và cô học trò An-tư-nai. Trong truyện có chi tiết đặc sắc: Một hôm thầy Đuy-sen mang về trường hai cây phong và nói với An-tư-nai: “Hai cây phong này, thầy mang về cho em đây. Chúng ta sẽ cùng trồng. Và trong khi chúng lớn lên, ngày một thêm sức sống, em sẽ trưởng thành, em sẽ là một người tốt…”.
Qua thời gian học tập, rèn luyện và đấu tranh, cô bé An-tư-nai nghèo khổ đã trở thành một Viện sĩ khoa học tài giỏi. Cũng qua thời gian và mưa nắng, hai cây phong cũng lớn dần lên thành hai cây cổ thụ đứng sừng sững ở đầu làng, đem lại cho dân làng, nhất là cho các em nhỏ, thế hộ sau của thầy trò Đuy-sen biết bao niềm vui trong sáng. Đoạn trích Hai cây phong, thuộc phần đầu tiên của thiên truyện Người thầy đầu tiên đưa người đọc vào thời gian hiện tại sau rất nhiều năm thầy Đuy-sen dạy và cô bé An-tư-nai học tập. Tuy không được biết những nội dung, ý nghĩa cụ thể của tác phẩm, nhưng đọc đoạn trích mà sách Ngữ vân 8 giới thiệu, chúng ta vẫn cảm nhận được một phần tài năng sáng tạo của nhà văn, vẻ đẹp đặc sắc của hình ảnh hai cây phong, nhất là vẻ đẹp tâm hồn của lớp trẻ, sự gắn bó giữa cãy và người thuộc thế hộ nối tiếp bước đi của Người thầy đầu tiên. “Ngọn cây và tầm nhìn”, phải chăng đấy là ý nghĩa bao trùm mà người đọc có thể cảm nhận được từ đoạn trích này.
Đoạn văn được viết bàng ngòi bút miêu tả xen lẫn tự sự, thời gian hiện tại xen lẫn hồi tưởng quá khứ, nhân vật “chúng tôi” song song, đổng hiện với nhân vật “tôi” cùng tâm sự, chia sẻ những suy nghĩ, cảm xúc với người đọc. Do đó, ngổn từ, hình ảnh cứ chấp chới bay lượn, lúc ẩn, lúc hiện, lúc thực, lúc mờ rất thú vị. Hình ảnh hai cây phong hiện lên, những trò vui tuổi trẻ được kể lại, những cảm xúc dạt dào, những suy nghĩ lắng sâu,… từng dòng, từng dòng ngân lên.
Những vẻ đẹp của hai cây phong: Từ mở đầu đến “… mọi làn gió nhẹ thoảng qua”. Hoá thân vào nhân vật “tôi”, người hoạ sĩ, nhà văn vẽ lại hình ảnh hai cây phong bằng từ ngữ, câu vãn đầy chất tạo hình và giàu chất nhạc. Mở đầu là hình ảnh hai cây phong lớn, hiên ngang đứng giữa ngọn đồi đầu làng, từ xa nhìn lại ngỡ như thấy “những ngọn hải đăng đặt trên núi”. Ngọn hải đăng đứng bên bờ biển toả ánh sáng soi đường, dẫn dắt những con tàu cập bến. Còn hai cây phong kia cũng đã từng làm nhiệm vụ chi lối dẫn đường cho biết bao nhiêu người con của làng Kur-ku-rêu hướng về, tìm về quê hương. Nghệ thuật so sánh của nhà văn thật có ý nghĩa. Vì thế cứ mỗi lần về quê, tôi – người hoạ sĩ, người kể chuyện – xác định “bổn phạn đầu tiên là từ xa dưa mát tìm hai cây phong thân thuộc”.
Và cứ mỗi lần như thế, tôi lại mong sao chóng về tới làng, chóng được lên đồi đến với cây, “dứng dưới gốc cây để nghe mãi tiếng lá reo cho đến khi say sưa ngây ngất”. Vậy là, bên cạnh hình ánh hai cây phong đứng sừng sững, hiên ngang trên đồi cao như một biểu tượng của hồn vía quê hương là hình ảnh một con người yêu quê hương da diết. Nhờ tình yêu ấy mà tôi, nhún vật kể chuyện nghe được “tiếng nói riêng”, “những lời ca êm dịu” của hai cây phong, hai sinh thể sống động như con người. Tác giả đã hoá thân vào nhân vật để kể chuyện, để miêu tả với hàng loạt những liên tưởng, so sánh, nhân hoá âm thanh, tiếng nói của cây phong. Dù ban ngày hay ban đêm, “chúng vẫn nghiêng ngả thân cây, lay động lá cành, không ngớt tiếng rì rào…”, có lúc “như một làn sóng thuỷ triều dâng lên vồ vào bãi cát…, có lúc “thì thầm… nồng thắm như một đốm lửa vô hình”, có lúc “khắp lá cành lại cất tiếng thở dài một lượt như thương tiếc người nào…”.
Và khi mây đen kéo đến thì hai cây phong “nghiêng ngả tấm thàn dẻo dai và reó vù vù như một ngọn lửa bốc cháy rừng rực”. Phải mang một tâm hồn nghệ sĩ hài hoà hai tố chất – tố chất hội hoạ và tố chất âm nhạc, nhân vật tôi * mới có thể vẽ lại được những đường nét, sắc màu, nghe lại được những âm thanh trầm bổng, thấm đượm hơi lửa nồng ấm, đắm say của những vẻ đẹp mà hai cây phong đã phô ra, đã truyền tới. Rõ ràng, qua cảm nhận cùa người nghệ sĩ, hai cây phong đã hiện lên với hình hài cao lớn, hiên ngang, với đường nét lá cành uyển chuyển, nhất là với tiếng reo đa thanh… đẹp kì diệu. Đó là hình ảnh của quê hương, cũng là biểu tượng cho sức sống mạnh mẽ mà dẻo dai, kiêu hùng bất khuất mà dịu dàng thân thương của những con người nơi đây. Khi người hoạ sĩ đứng dưới gốc cây “nghe mãi tiếng lá reo cho đến khi say sưa ngày ngất”, tình yêu quệ hương trong tâm hồn anh – nhà vãn Ai-ma-tốp, ngất ngây hoà quyện cùng đất trời, cây lá, con người quê hương. Đoạn văn xuôi có nhiều hình ảnh, từ ngữ tượng hình, tượng thanh sinh động, truyền cảm hấp dẫn như một bài thơ, một khúc hát vậy.
Vẻ đẹp tâm hồn tuổi trẻ: Chuyển xuống đoạn sau (từ câu “Những việc khám phá…” đến hết bài), ngôn ngữ lời văn cũng chuyển đổi, từ hiện tại tới cách cảm nhận của một người dã trưởng thành trở lại với những kỉ niệm tuổi thơ đầy mơ mộng. Ngỡ như chính Ai-ma-tốp đang bé lại để sống lại một kỉ niêm tuyệt vời. Vào một ngày nào dó của nãm học cuối cùng trước khi nghỉ hè, “tôi” -người kể chuyện – lên cao, cao nữa, cao mãi, có lẽ cao tới gần ngọn cây. “Và chúng tồi, lũ nhóc con đi chân đất… trèo lên cao làm chấn động vương quốc loài chim”. Một lời kể, một nhận xét thật ngây thơ mà thú vị ! Các cậu bé giống những chú chim non đã chiếm lĩnh vương quốc này, vòm cây xanh, bầu trời rộng. Nhờ đó, từ độ cao “ngang tầm cánh chim bay”, các cậu bé đã nhìn thấy cả một thế giới đẹp đẽ vô ngần của không gian bao la và ánh sáng. Đến những dòng này, nhân vật “tôi” mờ đi, để “chúng tôi” hiện lên choán lấy tất cả.
Tại sao như thế ? Phải chăng nhà văn muốn thay đổi điểm nhìn, hoá thân thực sự vào thế giới tuổi thơ để cảm nhận những vẻ đẹp thơ mộng của quê hương mình. Làng Ku-ku-rêu trên đất nước Cư-rơ-gư-xtan đã hiện lên dưới những đôi mắt trẻ thơ như thế nào ? Này dây, “đất rộng bao la làm chúng tôi sửng sốt”. Này đây, “chuồng ngựa của nông trang mà chúng tôi vẫn coi là toà nhà rộng lớn nhất trên thế gian… chỉ như căn nhà xép bình thường”. Phía xa là dải thảo nguyên hoang vu mất hút trong làn sương mờ đục. Và xa hơn nữa là những con sông, “những dòng sông lấp lánh tận chân trời như những sợi chỉ bạc mỏng manh…”. Thú vị biết bao, nhờ vị trí trên caọ của hai cây phong, các chú bé đã “thu vào tầm mắt muôn trùng nước non” đúng như ý thơ của Hồ Chí Minh trong một bài thơ nhiều người biết đến. Và cũng từ vị trí ngọn cây như thế, các cậu bé được sống trong những phút giây ngây ngất, hạnh phúc. “Chúng tôi nép minh ngồi trên các cành cây suy nghĩ… Chúng tôi ngồi nép trên các cành cây, lắng nghe…”.
Quả thật, trong những phút giây ấy, ở những đỉnh cao ấy, tầm nhìn của tuổi thơ được mở rộng, chiều suy nghĩ được khơi sâu, cả tâm hồn và trí tuệ như đang cùng cất cánh đê cảm nhận biết bao vẻ đẹp rộng dài, lắng nghe biết bao âm thanh huyền ảo, suy nghĩ và mộng mơ, khát vọng biết bao điều thiêng liêng, kì thú. Nói khác đi, nhờ hai cây phong lớn cao, vững vàng nâng đỡ, dìu dắt lên tận đỉnh ngọn, những chú bé làng Ku-ku-rêu ấy mới được mở rộng tầm nhìn, vươn tới bao nhiêu điều bổ ích. Trong dó, có lẽ điều bổ ích nhất là giàu có thêm tâm hồn và trí tuệ. Chí bằng một kí niệm tuổi thơ cụ thể của một nhân vật cụ thể, nhà văn đã đánh thức trong người đọc chúng ta biết bao kỉ niệm êm đềm, thân thương về quc hương, về đất nước, khi còn ấu thơ cũng như lúc đã về già. Đến phần cuối đoạn văn, nhân vật kể chuyện lại thêm một lần chuyển giọng.
Từ “chúng tôi”, nhân vật xưng “tôi”. ”Tôi lắng nghe tiếng hai cây phong rì rào, tim đập rộn ràng vì thảng thốt… hình dung ra những miền đất xa lạ kia… Chỉ có một điều tôi chưa hổ nghĩ đến : ai là người đã trổng hai cây phong trên đồi này… Ọuả đồi có hai cây phong ấy, không biết vì sao ở làng tôi họ gọi là Trường Đuy-sen…”. Đây chính là những dòng văn dẫn vào câu chuyện kê về những con người kì diệu của quê hương mình. Đật ở vị trí kết thúc vãn bản Hai cây phong này, đây lại là những tâm niệm của người hoạ sĩ khi được gặp lại hai cây phong, được sống lại tuổi thơ mộng mơ, lãng mạn đe rồi luôn nhớ tới và biết ơn lớp người đi trước, mở đường và gieo trồng những hạt giống, vun xới cho cây cối, giáo dục, thức tỉnh con người lớn lên. Đó là điều tâm niệm của một tấm lòng nhân hậu, biết “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, đáng yêu quý, trân trọng. Vậy là, từ sự cảm nhận những vẻ dẹp của hai cây phong, người hoạ sĩ đã kê về một kỉ niệm tuổi thơ không kém phần tươi đẹp mà giàu ý nghĩa : ngọn cây và tầm nhìn. Cây càng vươn cao bao nhiêu, càng đón được nhiều gió bấy nhiêu. Con người càng vươn cao, trướng thành bao nhiêu, tầm mắt càng mở rộng bấy nhiêu, nhưng đừng bao giờ quên cội nguồn, gốc rẻ…
Tóm lại, trong bài Hai cây phong, trích truyện Người thầy đầu tiên của nhà văn Ai-ma-tốp, hai cây phong được miêu tả hết sức sinh động qua cái nhìn và những hổi tưởng tuổi thơ đầy mơ mộng và lắng sâu của một hoạ sĩ, Từ đó, nhà vãn đánh thức nơi tâm hổn chúng ta tình yêu quê hương, lòng biết ơn các bậc tiền bối đã trồng cây vun xới những mầm xanh cây lá và giáo dục, dìu dắt thế hệ trẻ trưởng thành. Đọc và suy ngẫm về hình ảnh hai cây phong của xứ người, chúng ta không khỏi nhớ tới những cây đa, những rặng trâm bầu, những luỹ tre làng Việt Nam chúng ta. Ấy là hồn quê hương, là cội nguồn của đất nước, của dán tộc và của mỗi người chúng ta.
Bài văn phân tích đoạn trích “Hai cây phong” số 3
“Người thầy đầu tiên” là tác phẩm xuất sắc của Ai-ma-tốp – nhà văn xứ Cư-rơ-gư-xtan. “Hai cây phong” thuộc phần đầu của tác phẩm trên. Với lời văn chân thành, dạt dào cảm xúc, đoạn trích đã làm hiện lên trước mắt chúng ta cảnh sắc của làng quê tác giả. Đồng thời, ông cũng thể hiện tình yêu quê hương tha thiết, lòng biết ơn đối với người thầy đã vun trồng mơ ước, hi vọng cho những người học trò nhỏ.
Hóa thân vào nhân vật “tôi” – người họa sĩ – tác giả đã miêu tả cảnh sắc làng Ku-ku-rêu và vẻ đẹp của hai cây phong sau nhiều năm đi xa trở về. Những tiếng “làng Ku-ku-rêu chúng tôi”, “phía dưới làng tôi”, “phía trên làng tôi” cất lên thật đầm ấm và thương mến. Ngôi làng ở “ven chân núi”, trên một cao nguyên. Cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ, bao la, có “thung lũng Đất Vàng”, có “cánh thảo nguyên Ca-dắc-xtan mênh mông” rồi thì “rặng núi Đen và con đường sắt làm thành một dải thẫm màu băng qua đồng bằng chạy tít đến tận chân trời phía Tây”. Khung cảnh được cảm nhận bằng những hình ảnh, đường nét đậm nhạt, cao thấp, gần xa, đầy hoang sơ và thơ mộng, thể hiện sự tài hoa của người họa sĩ trước thiên nhiên và cả tình yêu, niềm tự hào của người con đối với mảnh đất quê hương.
Nhớ làng Ku-ku-rêu cũng chính là nhớ về hai cây phong nằm trên đồi cao, người họa sĩ biết chúng từ thuở ” bắt đầu biết mình” – một sự gắn bó tha thiết. Hai cây phong được so sánh với “những ngọn hải đăng đặt trên núi”- một hình ảnh đầy ý nghĩa. Nếu như ngọn hải đăng dừng trên biển, tỏa ánh sáng soi đường, dẫn dắt những con tàu cập bến thì hai cây phong đã dẫn lối, chỉ đường cho biết bao người con của làng Ku-ku-rêu hướng về, tìm về quê hương. Có thể nói chúng đã trở thành biểu tượng cho làng quê tác giả. Và tình yêu quê hương gắn liền với tình cảm dành cho hai cây phong. Ta bắt gặp một loạt các hình ảnh so sánh, nhân hóa để gợi tả về “tiếng nói riêng’, ‘tâm hồn riêng” của hai cây phong quê nhà, có lúc “tưởng như một làn sóng thủy triều dâng lên vỗ vào bãi cát”, có lúc nghe như một tiếng thì thầm thiết tha nồng thắm truyền qua lá cành như một đốm lửa vô hình”, có khi lại “bỗng im bặt một thoáng như thương tiếc người nào”. Nếu cây tre Việt Nam hiện lên với hình ảnh:
“Bão bùng thân bọc lấy thân
Tay ôm tay níu tre gần nhau thêm”
(Nguyễn Duy)
thì cây phong làng Ku-ku-rêu, cây phong thảo nguyên trong mây đen và giông bão bị “xô gãy cành, tỉa trụi lá” vẫn “dẻo dai và reo vù vù như một ngọn lửa bốc cháy rừng rực”. Câu văn cho thấy sức sống mãnh liệt của hai cây phong và phải chăng chúng cũng mang tính cách của con người nơi đây: dẻo dai, kiên cường mà rất đỗi dịu dàng, thân thương? Chắc chắn nhà văn tài ba của chúng ta phải mang một tâm hồn nghệ sỹ hài hòa hai tố chất: tố chất âm nhạc và tố chất âm nhạc mới có thể vẽ nên một bức tranh có đường nét, màu sắc, nghe được những âm thanh trầm bổng, thấm đượm hơi lửa nồng ấm, đắm say của hai cây phong. Cả đoạn văn gây được ấn tượng sâu sắc bởi sắc thái biểu cảm, âm nhạc và hội họa cùng nhau chắp cánh, qua đó nổi bật lên vẻ đẹp của hai cây phong và tình cảm của tác giả với chúng. Như lời tâm sự: “Chẳng qua chúng đứng trên đồi cao lộng gió nên đáp lại bất kì chuyển động khe khẽ nào của không khí” thế nhưng “việc khám phá ra chân lí đơn giản ấy vẫn không làm tôi vỡ mộng xưa’, và tuổi trẻ của tôi đã để lại nơi ấy, bên cạnh chúng như một mảnh vỡ của chiếc gương thần xanh”, ” mảnh vỡ của chiếc gương thần xanh” ấy là tâm hồn tuổi thơ vô cùng trong sáng.
Ở phần hai trích đoạn, tác giả kết hợp tự sự và miêu tả, mạch kể “tôi” đan xen với mạch kể”chúng tôi”, gợi lại kỉ niệm tuổi thơ êm đềm. Những hoài niệm bao giờ cũng đằm thắm, thiết tha. Với con người Việt Nam chúng ta, mỗi lần xa quê là “nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương”, là nhớ con đò, cánh diều biếc, nhớ cây đa, giếng nước, mái đình, nhớ con sông quê:
“Bạn bè tôi tụm năm tụm bảy
Bầy chim non bơi lội trên sông
Tôi đưa tay ôm nước vào lòng
Sông mở nước ôm tôi vào dạ…”
(Nhớ con sông quê hương – Tế Hanh)
Còn người họa sĩ trong câu chuyện lại nhớ về những năm tháng tuổi thơ bên hai cây phong thân thương. Làm sao quên được “năm học cuối cùng, trước khi bắt đầu nghỉ hè”, bọn con trai nghịch ngợm và hồn nhiên ‘reo hò, huýt còi ầm ĩ” chạy lên đồi. Hai cây phong như người bạn” nghiêng ngả đung đưa”, “chào mời chúng tôi đến với bóng râm mát rượi và tiếng lá xào xạc dịu hiền. “Lũ nhóc con đi chân đất” trèo lên cây ” làm chấn động cả vương quốc loài chim”. Một lời kể thật ngây thơ mà thú vị! Các cậu bé giống như những chú chim non đã chiếm lĩnh vòm cây xanh này. TRên những cành cao nhất, chúng sung sướng ngắm nhìn cảnh vật gần xa, tưởng như “có một phép thần thông nào vụt mở ra trước mắt chúng tôi cả một thế giới đẹp đẽ vô ngần của không gian bao la và ánh sáng”.
Cây phong đã làm lũ trẻ được mở rộng tầm mắt. Dưới con mắt trẻ thơ, chuồng ngựa của nông trang chỉ như một căn nhà xép bình thường, này đây dải thảo nguyên xa thẳm xanh biếc, mất hút trong làn sương mờ, kia những dòng sông xa lạ “lấp lánh chân trời như những sợi chỉ bạc mỏng manh”. Lũ trẻ lắng nghe tiếng gió, tiếng lá cây.Quả thật trong giây phút ấy, cả trí tuệ và tâm hồn của các cậu bé như được khơi sâu. Nhân vật “tôi” sung sướng hạnh phúc đến nỗi “tim đập rộn ràng”, người họa sĩ tương lai cố hình dung ra những miền xa lạ kia. Các câu văn cuoi sđoạn trích:”Thuở âý một điều tôi chưa hề nghĩ đến: ai là người đã trồng hai cây phong trên đồi này…Quả đồi có hai cây phong ấy, không biết vì sao ở làng tôi họ gọi là Trường Đuy-sen” đã dẫn người đọc vào câu chuyện về người thầy Đuy-sen- ngườ đem ánh sáng văn hóa tới cho bọn trẻ. Có thể nói từ việc cảm nhận vẻ đẹp của hai cây phong, người họa sĩ đã kể về những kỉ niệm ấu thơ tươi đẹp, giàu ý nghĩa.
Với ngòi bút sinh động, đạm chất hội họa, Ai-ma-tốp đã khiến hai cây phong vừa mang vẻ đẹp thân thuộc nhưng cũng rất cao quý. Đoạn trích cũng nhắc nhở chúng ta đừng bao giờ quên đi quá khứ, tuổi thơ, quên bóng dáng quê hương.
Bài văn phân tích đoạn trích “Hai cây phong” số 5
Ai-ma-tốp sinh năm 1928, trong một gia đình viên chức ở nước cộng hoà cư-rư-gư-xtan (hay còn gọi là Kir-ghi-zi) ở vùng Trung Á (thuộc Liên Xô cũ). Năm 1953, Ai-ma-tốp tốt nghiệp Đại học nông nghiệp, trở thành kĩ sư chăn nuôi. Mấy năm sau, ông học sáng tác rồi chuyển sang hoạt động báo chí và viết văn. Tập Núi đồi và thảo nguyên của Ai-ma-tốp đã được trao tặng Giải thưởng Lê-nin, một giải thưởng cao quý của Liên bang Xô viết. Tác phẩm này gồm ba truyện vừa: Người thầy đầu tiên, Cây phong non trùm khăn đỏ, Mắt lạc đà. Ngoài ra, Ai-ma-tốp còn có nhiều tác phẩm nổi tiếng khác như Vĩnh biệt Gun-xa-rư (1966). Con tàu trắng (1970), Một ngày dài hơn thế (1980)… Tên tuổi nhà văn Ai-ma-tốp đã trở nên quen thuộc với bạn đọc trên toàn thố giới.Hai cây phong là đoạn trích từ mấy trang đầu của truyện Người thầy đầu tiên.
Bối cảnh của truyện là làng Ku-ku-rêu ở một vùng núi hẻo lánh, nghèo nàn, lạc hậu vào thời kì đầu thế kỉ hai mươi. Thời đó, tư tưởng phong kiến, gia trưởng còn nặng nề, phụ nữ bị coi thường và trẻ mồ côi bị rẻ rúng. Cô bé An-tư-nai đã mất cả cha lẫn mẹ, phải sống nhờ gia đình chú thím. Cô phải làm việc quần quật suốt ngày và chịu sự giám sát hà khắc của bà thím dâu đáo để, độc ác. Thầy giáo trẻ Đuy-sen được Đoàn thanh niên Cộng sản cử về làng để mở trường xoá mù chữ đã hết lòng giúp đỡ để An-tư-nai được đi học. Bà thím tham tiền ép gả cô bé làm vợ lẽ một gã đàn ông khá giả trong vùng. Một lần nữa, cô bé lại được thầy Đuy-sen giải thoát và gửi lên tỉnh học, rồi tiếp tục học đại học ở Mát-xcơ-va. Sau này, cô trở thành nữ viện sĩ An-tư-nai Xu-lai-ma-nô-va. Cồn thầy Đuy-sen lúc về già làm nghề đưa thư.
Đoạn trích Hai cây phong là bức tranh thiên nhiên tuyệt mĩ và là kí ức sâu sắc của tuổi thơ hiện lên qua dòng hồi tưởng tràn đầy cảm xúc yêu thương. Thông qua việc miêu tả vẻ đẹp của hai cây phong, tác giả ca ngợi quê hương yêu dấu, nơi đã khắc sâu bao kỉ niệm buồn vui và hun đúc trong tâm hồn thơ dại những ước mơ, khát khao cháy bỏng. Đây là câu chuyện của một người xa quê kể về nơi chôn nhau cắt rốn của mình bằng tình cảm gắn bó tha thiết, thiêng liêng. Mở đầu đoạn văn, tác giả giới thiệu vị trí của làng mình trên thảo nguyên bao la:Làng Ku-ku-rêu chúng tôi nằm ven chân núi, trên một cao nguyên rộng có những khe nước ào ào từ nhiều ngách đá đổ xuống. Phía dưới làng tôi là thung lũng Đất vàng, là cánh thảo nguyên Ca-dắc-xtan mênh mông nằm giữa các nhánh của rặng núi Đen và con đường sắt làm thành một dải thẫm màu băng qua đồng bằng chạy tít đến tận chân trời phía Tây.
Khung cảnh trữ tình này vừa là phông nền làm nổi bật hình ảnh hai cây phong, vừa là nguồn cảm hứng bất tận của tác giả: Phía trên làng tôi, giữa một ngọn đồi, có hai cây phong lớn. Tôi biết chúng từ thuở bắt đầu biết mình. Dù ai đi từ phía nào đến làng Ku-ku-rêu chúng tôi cũng đều trông thấy hai cây phong đó trước tiên, chúng luôn hiện ra trước mắt hệt như những ngọn hải đăng đặt trên núi… Cứ mỗi lần về quê, khi xuống xe lửa đi qua thảo nguyên về làng, tôi đều coi bổn phận đầu tiên là từ xa đưa mắt tìm hai cây phong thân thuộc ấy. Tâm trạng này của tác giả giống như tâm trạng của người đi xa, nóng lòng muốn gặp lại người thân sau bao ngày cách biệt. Dẫu chưa nhìn thấy cây nhưng hình ảnh thân thuộc của chúng đã hiện rõ trong tâm tưởng: Dù chúng có cao đến đâu chăng nữa, đứng xa thế cũng khó lòng trông thấy ngay được, nhưng tôi thì bao giờ cũng cảm biết được chúng, lức nào cũng nhìn rõ.
Hình ảnh của hai cây phong được coi là dấu ấn của làng đã in sâu trong trái tim, khối óc và trở thành một phần máu thịt của người đi xa :Đã bao lần tôi từ những chốn xa xôi trở về Ku-ku-rêu, và lần nào tôi cũng nghĩ thầm với một nỗi buồn da diết: “Ta sắp được thấy chúng chưa, hai cây phong sinh đôi ấy? Mong sao chóng về tới làng, chóng lên đồi mà đến với hai cây phong! Rồi sau đó cứ đứng dưới gốc cây để nghe mãi tiếng lá reo cho đến khi say sưa ngây ngất”. Tình yêu tha thiết dành cho hai cây phong tuôn chảy không ngừng dưới ngòi bút tinh tế của nhà văn đã mang lại cho hai cây phong đời sống tâm hồn phong phú như con người. Đây là bức tranh được vẽ bằng thứ ngôn ngữ đầy tính tạo hình của hội họa và tính trữ tình của thơ, của nhạc:
Trong làng tôi không thiếu gì các loại cây, nhưng hai cây phong này khác hẳn – chúng có tiếng nói riêng và hẳn phải có một tâm hồn riêng, chan chứa những lời ca êm dịu. Dù ta tởi đây vào lúc nào, ban ngày hay ban đêm, chúng cũng vẫn nghiêng ngả thân cây, lay động lá cành, không ngớt tiếng rì rào theo nhiều cung bậc khác nhau. Có khi tưởng chừng như một làn sóng thủy triều dâng lên vỗ vào bãi cát, có khi lại nghe như một tiếng thì thầm thiết tha nồng thắm truyền qua lá cành như một đốm lửa vô hình, có khi hai cây phong bỗng im bặt một thoảng, rồi khắp lá cành lại cất tiếng thở dài một lượt như thương tiếc người nào. Và khi mây đen kéo đến cùng với bão dông, xô gãy cành, tia trụi lá, hai cây phong nghiêng ngả tấm thân dẻo dai và reo vù vù như một ngọn lửa bốc cháy rừng rực.
Hai cây phong được quan sát, miêu tả tỉ mỉ, sinh động bằng đôi mắt họa sĩ, đôi tai nhạc sĩ và trái tim của nhà thơ. Bên cạnh bức tranh bằng ngôn từ là một bản giao hưởng của âm thanh với đủ cung bậc buồn vui. Người viết đã phát huy cao độ trí tưởng tượng bay bổng và cảm xúc say mê, nồng nhiệt của mình vào việc thể hiện vẻ đẹp lạ thường của hai cây phong. Có khi chúng thì thầm thiết tha nồng nàn, có khi chúng bỗng im bặt một thoáng, rồi khấp lá cành lại cất tiếng thở dài một lượt như thương tiếc người nào. Được nhân cách hóa cao độ nên hai cây phong có tiếng nói và tâm hồn đa dạng, phong phú, cuốn hút lòng người.
Âm thanh huyền ảo phát ra từ hai cây phong làm say đắm tuổi thơ sau này đã được nhà văn khám phá ra nhờ những hiểu biết khoa học:Về sau, khi nhiều năm đã trôi qua, tôi mới hiểu được điều bí ẩn của hai cây phong. Chẳng qua chúng đứng trên đồi cao lộng gió nên đáp tại bất kì chuyển động khe khẽ nào của không khí mỗi chiếc lá nhỏ đều nhạy bén đón tấy mọi làn gió nhẹ thoảng qua. Dấu ấn và kỉ niệm về hai cây phong vẫn còn nguyên vẹn sau ngần ấy thời gian bởi vì hai cây phong gắn bó thân thiết với tuổi học trò. Tác giả kể rằng : Việc khám phá ra chân lí giản đơn ấy vẫn không làm tồi vỡ mộng xưa, không làm tôi bỏ mất cách cảm thụ của tuổi thơ mà tôi còn giữ đến tận ngày nay. Và cho đến tận ngày nay tôi vẫn thấy hai cây phong trên đồi có một vẻ sinh động khác thường. Tuổi trẻ của tôi đã để lại nơi ấy, bên cạnh chúng như một mảnh vỡ của chiếc gương thân xanh…
Hai cây phong đẹp như những cây thần trong cổ tích, vẻ đẹp kì diệu của chúng sẽ mãi mãi in sâu trong tâm khảm nhà văn, bất chấp quy luật thay đổi của thiên nhiên, của lòng người bởi vì nó được nhìn qua đôi mắt trẻ thơ chan chứa tình yêu nồng nàn, sâu đậm đối với những gì thân thuộc nhất của quê hương. Theo dòng hồi tưởng miên man, kỉ niệm gắn liền với hai cây phong dần dần hiện lên rõ ràng, tươi mới như vừa xảy ra hôm qua. Những lúc được vui chơi cùng cây là những khoảnh khắc vui sướng, hạnh phúc của tuổi thơ:
Vào năm học cuối cùng, trước khi bắt đầu nghỉ hè, bọn con trai chúng tôi chạy ào lên đấy phá tổ chim. Cứ mỗi lần chúng tôi reo hò, huýt còi ầm ĩ chạy lên đồi là hai cây phong khổng lồ lại nghiêng ngả đung đưa như muốn chào mời chúng tôi đến với bóng râm mát rượi và tiếng lá xào xạc dịu hiền. Và chúng tôi, lũ nhóc con đi chân đất, cõng kênh nhau bám vào các mắt mấu và cành cây trèo lên cao làm chấn động cả vương quốc loài chim. Hàng đàn chim hoảng hốt kêu lên, chao đi chao lại trên đầu. Nhưng chúng tôi vẫn chưa coi vào đâu, đến đây đã thấm gì! Chúng tôi cứ leo lên cao nữa, cao nữa – nào xem ai can đảm và khéo léo hơn ai! Và từ trên những cành cao ngất, cao đến ngang tầm cánh chim bay, bỗng như có một phép thần thông nào vụt mở ra trước mắt chúng tôi cả một thế giới đẹp đẽ vô ngần của không gian bao la và ánh sáng. Tưởng chừng như cảm giác háo hức, hiếu kì của cậu bé mười mấy tuổi năm nào khi trèo lên ngọn cây, phóng tầm mắt về phía chân trời và lắng tai nghe tiếng gió ảo huyền thì thầm trò chuyện với lá phong giờ đây vẫn còn nóng hổi trong tâm hồn người họa sĩ:
Đất rộng bao la làm chúng tôi sửng sốt. Mỗi đứa chúng tôi đều nín thở ngồi lặng đi trên một cành cây và quên mất cả chim lẫn tổ chim. Chuồng ngựa của nông trang mà chúng tôi vẫn coi là tòa nhà rộng lớn nhất trên thế gian, ngồi đây chúng tôi thấy chỉ như một căn nhà xép bình thường. Phía sau làng là dải thảo nguyên hoang vu mất hút trong làn sương mờ đục. Chúng tôi cố giương hết tầm mắt nhìn vào nơi xa thẳm biêng biếc của thảo nguyên và nhìn thấy không biết bao nhiêu, bao nhiêu là vùng đất mà trước đây chúng tôi chưa từng biết đến, thấy những con sông mà trước đây chúng tôi chưa từng nghe nói.
Những dòng sông lấp lánh tận chân trời như những sợi chỉ bạc mỏng manh. Chúng tôi nép mình ngồi trên các cành cây suy nghĩ: đã phải đấy là nơi tận cùng thế giới chưa, hay phía sau vẫn còn có bầu trời như thế này, những đám mây, những đồng cỏ và sông ngòi như thế này? Hình ảnh hai cây phong gợi lại những ki niệm khó quên về thời niên thiếu tinh nghịch, hồn nhiên, trong sáng. Nó nâng cao và mở rộng tầm mắt, đồng thời thổi bùng lên ngọn lửa khát khao hiểu biết trong lòng nhà văn về những miền đất bí ẩn đầy sức quyến rũ lẩn sau chân trời xa thẳm biêng biếc kia…
Kết thúc đoạn văn, tác giả đặt ra câu hỏi ai đã trồng hai cây phong và đặt tên cho quả đồi: Thuở ấy, chỉ có một điều tồi chưa hề nghĩ đến ai là người đã trồng hai cây phong trên đồi này ? Người vô danh ấy đã ước mơ gì, đã nói, những gì khi vùi hai gốc cây xuống đất, người ấy đã ấp ủ những niềm hi vọng gì khi vun xới chúng nơi đây, trên đỉnh đồi cao này? Quả đồi có hai cây phong ấy, không biết vì sao ở làng tôi họ gọi là “Trường Đuy-sen”.
Cuối tác phẩm, tác giả đã giải thích nguồn gốc của hai cây phong bằng một câu chuyện cảm động gắn liền với tình thầy trò thắm thiết. Cách đây bốn mươi năm, chính thầy Đuy-sen đã đem hai cây phong về trồng trên đồi này và thầy đã gửi gắm ở hai cây phong non hi vọng của mình vào những đứa trẻ nghèo khổ, thất học như An-tư-nai sau này sẽ trở thành những người hữu ích. Thầy Đuy-sen đã gieo những hạt giống ước mơ vào tâm hồn non trẻ. Hai cây phong đầu làng qua bao năm tháng đã thầm lặng góp phần cùng người thầy đầu tiên biến ước mơ thành hiện thực.
Chuyện về hai cây phong giống như lời tâm sự tự nhiên và chân thành. Tác giả đã truyền tình yêu tha thiết từ trái tim mình sang trái tim bạn đọc, dẫn dắt bạn đọc đến với nhân vật Đuy-sen – người thầy đầu tiên của ngôi làng Ku-ku-rêu nghèo nàn, nhỏ bé bằng đoạn văn miêu tả vẻ đẹp khó quên của hai cây phong nhân chứng của câu chuyện hết sức xúc động về tình thầy trò, về lương tâm và trách nhiệm cao cả của thầy giáo Đuy-sen.
Bài văn phân tích đoạn trích “Hai cây phong” số 9
Truyện ngắn Người thầy đầu tiên của nhà văn Ai-ma-tốp đã đưa chúng ta về với làng nhỏ Ku-ku-rêu của nước cộng hoà Cư-rơ-gư-xtan thuộc Liên-Xô (cũ). Câu chuyện về người chiến sĩ Hồng quân, đoàn viên thanh niên cộng sản Đuy-sen – người thầy đầu tiên đã trồng hai cây phong nhỏ cùng cô bé An-tư-nai thuở trước. Để bốn chục năm sau, cô bé đã là một viện sĩ danh tiếng, còn Hai cây phong đã trở thành một phần không thể thiếu trong ký ức làng quê của biết bao thế hệ dân làng Ku-ku-rêu.
Kỷ niệm gắn bó với hai cây phong được kể lại theo hai mạch dẫn lồng vào nhau: mạch dẫn chuyện trực tiếp của nhân vật “tôi” – một hoạ sĩ đã lớn lên từ chính mảnh đất này và mạch kỷ niệm của cả một thế hệ “chúng tôi”. Ký ức thật đậm nét của tuổi thơ đã khiến cho người hoạ sĩ – nhân vật “tôi” đã tái hiện lại thật đẹp và xúc động hình ảnh hai cây phong – biểu tượng của quê hương, một mảnh hồn làng sống động.
Bắt đầu của những ký ức về làng quê là lời dẫn chuyện đưa người đọc trở về một nơi nằm ven chân núi, trên một cao nguyên rộng, có những khe nước ào ào từ nhiều ngách đá đổ xuống . Ku-ku-rêu đã hiện ra với tất cả vẻ hoang sơ của thiên nhiên với thung lũng, thảo nguyên, rặng núi. Hai cây phong không phải là món quà của tự nhiên nhưng đã từ rất lâu, những đứa trẻ đã biết chúng từ thuở bắt đầu biết mình. Để cũng rất tự nhiên, hình ảnh hai cây phong đã trở thành của riêng làng Ku-ku-rêu: “chúng luôn hiện ra trước mắt hệt như những ngọn hải đăng đặt trên núi”, trở thành mốc định hướng cho mọi người tìm đến.
Riêng đối với “tôi”, “mỗi lần về quê, khi xuống xe lửa đi qua thảo nguyên về làng, tôi đều coi bổn phận đầu tiên là từ xa đưa mắt tìm hai cây phong thân thuộc ấy”. Anh đã dành tình cảm đặc biệt với hai cây phong như với những người bạn, nhìn bằng cặp mắt chan chứa tình cảm yêu thương, nên dù khó nhìn đến mấy, anh bao giờ cũng cảm biết được chúng, lúc nào cũng nhìn rõ . Hai cây phong đã trở thành một phần tâm hồn của anh, chi phối cả niềm vui, nỗi buồn của người hoạ sĩ.
Bằng tình yêu ấy, anh đã tạo nên một bức tranh thật sinh động, đẹp đẽ. Một bức tranh ngân nga cả những giai điệu “tiếng lá reo cho đến khi say sưa ngây ngất”. Đoạn văn miêu tả hình ảnh hai cây phong đẹp như một bài thơ về một loài cây “có tiếng nói riêng và hẳn phải có một tâm hồn riêng, chan chứa những lời ca êm dịu”. Có lẽ chính tình yêu quê hương của người hoạ sĩ đã đem đến cảm giác choáng ngợp say sưa ấy: “Dù ta tới đây vào lúc nào, ban ngày hay ban đêm, chúng cũng vẫn nghiêng ngả thân cây, lay động lá cành, không ngớt tiếng rì rào theo nhiều cung bậc khác nhau.
Có khi tưởng chừng như một làn sóng thủy triều dâng lên vỗ vào bãi cát, có khi lại nghe như một tiếng thì thầm thiết tha nồng thắm chuyển qua lá cành như một đốm lửa vô hình, có khi hai cây phong bỗng im bặt một thoáng, rồi khắp lá cành lại cất tiếng thở dài một lượt như thương tiếc người nào”. Ngay cả khi thời tiết thay đổi khắc nghiệt, hai cây phong ấy vẫn như một con người bền bỉ kiên cường đối chọi với sức mạnh tàn phá của bão dông, “nghiêng ngả tấm thân dẻo dai và reo vù vù như một ngọn lửa bốc cháy rừng rực”. Cảm nhận của tuổi thơ đã được người họa sĩ ấy trân trọng gìn giữ, ngay cả khi khám phá ra điều bí ẩn về hai cây phong bằng những giải thích chính xác khoa học thì : “việc khám phá ra chân lí giản đơn ấy vẫn không làm tôi vỡ mộng xưa, không làm tôi bỏ mất cách cảm thụ của tuổi thơ mà tôi còn giữ đến tận ngày nay”. Bởi lẽ cây phong ấy đã gắn với cả một thời tươi đẹp: “Tuổi trẻ của tôi đã để lại nơi ấy, bên cạnh chúng như một mảnh vỡ của chiếc gương thần xanh…”. Hình ảnh thời ấu thơ đã tạo thành không gian cổ tích rất riêng, phải chăng chính từ tình yêu và sự gắn bó với hai cây phong, đã làm cậu bé năm xưa lớn lên trở thành họa sĩ với mong muốn vẽ lại linh hồn nồng thắm của làng quê?
Hai cây phong ấy còn là kỷ niệm chung của chúng tôi – bọn con trai tinh nghịch ở làng Ku-ku-rêu, những người bạn cùng trang lứa của người họa sĩ. Đó là tất cả những ngày tháng được vui chơi, chạy nhảy giữa núi đồi rộng lớn , trong bóng râm mát rượi và tiếng lá xào xạc dịu hiền của hai cây phong. Đẹp làm sao khoảnh khắc những cậu bé ấy được nâng lên cao từ những cành cao ngất, cao đến ngang tầm chim bay, một thế giới khác đã được mở ra, vượt ra khỏi giới hạn của làng quê Ku-ku-rêu nhỏ bé, “như có một phép thần thông nào vụt mở ra trước mắt chúng tôi cả một thế giới đẹp đẽ vô ngần của không gian bao la và ánh sáng”. Hai cây phong trở thành bệ đỡ, nâng cánh ước mơ cho những đứa trẻ, mở tầm nhận thức về một thế giới đầy những điều mới lạ cần khám phá, hướng về “những miền đất bí ẩn đầy sức quyến rũ lẩn sau chân trời xa thẳm biêng biếc kia”.
Cũng như bạn bè của mình, “tôi” – chú bé sau này là họa sĩ cũng trải qua cảm giác “tim đập rộn ràng vì thảng thốt và vui sướng, rồi trong tiếng xào xạc không ngớt ấy, tôi cố hình dung ra những miền xa lạ kia”. Hai cây phong đã trở thành người bạn lớn, người bạn tâm tình thân thiết đem lại những niềm vui vỡ oà hạnh phúc cho tuổi thơ.
Khi hưởng thụ niềm vui trong bao tháng ngày hồn nhiên thơ mộng bên hai cây phong ấy, không cậu bé nào đặt câu hỏi về người đã vun mầm, ấp ủ những niềm hi vọng, đem lại hạnh phúc tuổi thơ. Đó cũng là điều bình thường với bất cứ em bé nào. Hai cây phong của người chiến sĩ Hồng quân, đoàn viên thanh niên cộng sản Đuy-sen đã cùng trồng với em bé khốn khổ An-tư-nai trong những ngày làng Ku-ku-rêu còn chìm đắm trong lạc hậu tối tăm và những hủ tục còn đè nặng trong đời sống dân làng những năm đầu sau cách mạng tháng Mười đã trở thành chứng nhân cho sự lớn khôn của bao thế hệ.
Bản thân người thầy đầu tiên ấy vẫn ở lại với làng, đã trở thành một ông lão đưa thư mẫn cán Đuy-sen, thế nhưng khi các em bé gọi quả đồi có hai cây phong là “Trường Đuy-sen” như bao dân làng, có mấy ai còn nhớ ông lão ấy chính là thầy Đuy-sen, người đem đến ánh sáng cách mạng góp phần xoá tan đi bóng tối cho bao cuộc đời? Hai cây phong còn là minh chứng cho sự hy sinh lặng thầm của những người cộng sản trẻ tuổi đã không ngại ngần cống hiến thời thanh xuân tươi đẹp cho quê hương thay da đổi thịt.
Tình cảm yêu mến hai cây phong của “tôi”, của “chúng tôi”, của những người dân làng Ku-ku-rêu khiến chúng ta trân trọng chính là vì hai cây phong ấy gắn với câu chuyện về một con người cao đẹp, người thầy giáo không có bằng sư phạm nhưng đã vun trồng bao ước mơ, hi vọng cho những trò nhỏ của mình.